Tổ sư của môn phái Karaté
Năm 1902, Gichin Funakoshi, từ Okinawa sang Nhật, công khai biểu diễn võ công tại trường Japan’s Kagashima Prefecture Shintaro Ozawa, chủ tịch của trường đã bị lôi cuốn bởi môn võ công mới mẽ này và có ý muốn đưa Karaté vào chương trình võ học của trường.
Năm 1916, Funakoshi được mời biểu diễn võ công tại Butokuden, là trung tâm võ thuật của các môn phái của Nhật. Mùa Xuân năm 1922, Funakoshi trở lại Nhật và yêu cầu Tổng Trưởng Giáo Dục để cho ông biểu diễn tại Đại Hội Thể Thao Toàn Quốc ở Tokyo. Các chưởng môn của các môn phái đều bị hấp dẫn bởi võ công Karaté, trong đó có Jigoro Kano, tổ sư của môn phái Nhu Đạo đã hết sức mời Funakoshi lưu lại Nhật Bản để truyền bá môn Karaté. Từ đó tên tuổi ông được biết đến và sau này ông được xem như là tổ sư của môn phái Karaté vì công trình truyền bá và phát triển môn phái ngày càng lớn mạnh. Thật ra lúc đó hai vị sư phụ của ông là Azato và Itosu, cùng những sư thúc, sư bá của ông còn sống, nhưng ông được chọn để đại diện sang Nhật vì ngoài võ công, kiến thức và sự học hỏi của ông đều cao hơn các người trong môn phái lúc bấy giờ. Hơn nữa ông là người thông thạo tiếng Nhật và thông hiểu phong tục, tập quán của người Nhật.
Từ năm 1935, Funakoshi mở nhiều võ đường Karaté tại Nhật. Một đệ tử của ông, mở ra võ đường Shotokan, sau này trở nên một trong những hệ phái lớn mạnh và nổi tiếng nhất trên thế giới. Suốt thời gian Đệ Nhị Thế Chiến, võ sinh của Shotokan gia nhập quân đội và bị chết rất nhiều. Ngôi võ đường lại bị bom phá hủy năm 1945. Khi chiến tranh chấm dứt, hệ phái này mới xây dựng lại.
Năm 1949, Nihon Karaté Kyokai (Tổng Cuộc Karaté Nhật Bản: The Japan Karaté Association, thường được gọi là JKA) được thành lập và do Funakoshi làm chủ tịch. Năm ông 81 tuổi, Masatoshi Nakayama và Hidetaka Nishinjama được chọn để điều hành tổng cuộc.
Sự bành trướng của môn phái Karaté
Kể từ đó, người Nhật xem Karaté như là một môn phái của họ. Sau khi đã trở nên một trong “ngũ đại môn phái” của Nhật, Tổng Cuộc Karaté Nhật Bản nhắm đến sự bành trướng môn phái trên tầm vóc quốc tế và mục tiêu đã được chuẩn bị thật quy mô. Đầu tiên JKA đào tạo nhân lực: tuyển chọn những Huyền Đai Đệ Nhị Đẳng xuất sắc để theo học một chương trình Đại Học gồm những môn căn bản như Thể Chất, Tâm Lý, Lịch Sử, Thể Thao và cả Quản Trị Kinh Doanh... Và cuối cùng trước khi ra trường là phải đạt được ít nhất là Huyền Đai Đệ Tam Đẳng Karaté. Chương trình này được JKA nỗ lực đào tạo chẳng những là một cao thủ Karaté, mà phần kiến thức, đạo đức phải xứng đáng là một võ sư, cũng như đủ khả năng để điều hành một võ đường như một thương vụ vậy. Nhiệm vụ của họ là đặt nền móng và phát triển môn phái ở hải ngoại.
Đầu năm 1961, mảnh đất mà JKA nhắm đến trước tiên là Hoa Kỳ. Trong những năm đầu của thập niên 70, những cao thủ JKA gửi đi như Teruyuki Okazaki Nishiyama đã lập xong nền tảng vững chắc của Karaté tại Hoa Kỳ. Cũng trong thời gian này, vì ảnh hưởng chính trị, có sự phân hóa thành hai nhóm: International Shotokan và American Amateur Karaté Federation (AAKF) do Nishiyama lãnh đạo. Tuy vậy, cả hai vẫn còn nằm trong hệ thống của JKA.
Đến thập niên 80, người Nhật đã thành công trong việc phát triển Karaté tại Hoa Kỳ. Bước kế của họ là muốn môn phái phát triển hơn nữa, họ phải đào tạo những huấn luyện viên người Hoa Kỳ. Đồng thời với những nỗ lực của JKA, Amateur Athletic Union và World Union of Karaté Organization (WUKO), người ta hy vọng rằng Karaté sẽ góp mặt trong những kỳ tranh tài ở Thế Vận Hội.